Logo vi.removalsclassifieds.com

Sự khác biệt giữa Moose và Elk (Với Bảng)

Mục lục:

Anonim

Vì cả nai sừng tấm và nai sừng tấm đều thuộc họ nai, nên hầu hết mọi người khó có thể phân biệt được đâu là nai sừng tấm và nai sừng tấm. Cũng bởi vì nai sừng tấm là loài lớn hơn và được biết đến nhiều hơn trong hai loài, một số người có thể không biết rằng nai sừng tấm thậm chí còn tồn tại!

Hơn nữa, tên của những sinh vật này thay đổi ở các quốc gia khác nhau. Ví dụ, ở một số quốc gia ở Châu Âu, chẳng hạn như Thụy Điển, Alces (con nai sừng tấm) bị gọi nhầm là nai sừng tấm. Do đó, sự hiện diện của các khu vực và quốc gia khác nhau một chút. Mặc dù có nhiều hiểu lầm, khoa học có thể phân biệt chúng một cách chính xác. Những điểm khác biệt chính giữa nai sừng tấm và nai sừng tấm được nêu rõ trong bài viết này.

Moose vs Elk

Sự khác biệt giữa nai sừng tấm và nai sừng tấm là nai sừng tấm có màu nâu rám nắng và thực tế có màu đen khi không được nhận thấy rõ ràng, và chúng lớn hơn nai sừng tấm, có màu nâu nhạt với các gốc và bụng màu vàng nhạt và những chiếc sừng khổng lồ. Gạc của nai sừng tấm rộng hơn và lớn hơn so với nai sừng tấm. Hơn nữa, nai sừng tấm dường như có một cái mõm nhô ra (nổi rõ hơn ở con đực), điều này không thấy ở nai sừng tấm.

Nai sừng tấm (Alces alces) là đại diện lớn nhất của nhóm nai thuộc họ Cervidae. Những chiếc gạc khổng lồ, rộng và dẹt của những con đực già, cũng như tầm vóc to lớn, màu đen, chân dài, mõm rủ xuống và tuyến lông rủ xuống (gọi là cái chuông) làm cho nai sừng tấm nổi bật. Gạc là cách tốt nhất để phân biệt giữa nai sừng tấm và nai sừng tấm. Những chiếc gạc của nai sừng tấm rất lớn và được hàn lại với nhau ở giữa, tạo cho chúng vẻ ngoài gần như lòng bàn tay. Những chiếc gạc của dạng này được gọi là sừng "bạn bè".

Nai sừng tấm (chi Cervus elaphus), thường được gọi là wapiti, là một trong những loài phụ lớn nhất và cao cấp nhất của hươu đỏ (Cervus elaphus), có thể được tìm thấy ở Bắc Mỹ và các vùng cao nguyên cao nhất của Đông Á. Nó thuộc họ nai Cervidae (thứ tự Artiodactyla). Theo điều tra di truyền hiện đại, "hươu đỏ" có thể là một trong 3 loài: hươu đỏ châu Âu, hươu đỏ Tây Tạng - Tây Trung Quốc, hoặc nai sừng tấm.

Về mặt sinh học, nai sừng tấm tương tự như hươu đỏ. Tuy nhiên, chúng thích nghi tốt hơn với cuộc sống ở vùng đồng bằng rộng lớn, đồng cỏ và mùa đông khắc nghiệt, kéo dài. Chúng phát triển như những vận động viên chạy đường dài nhanh nhẹn, ngay cả với những con ngựa vĩ đại nhất, cũng khó bị bắt, đặc biệt là trên địa hình bị phá vỡ. Tuy nhiên, họ tạo thành các nhóm lớn để tự vệ trước những kẻ tấn công.

Bảng so sánh giữa Moose và Elks

Các thông số so sánh

Con nai sừng tấm

Con nai sừng tấm

Vẻ bề ngoài

1. Con nai sừng tấm là loài nặng nhất trong các loài hươu. Con đực dễ dàng được xác định bởi bộ gạc khổng lồ của chúng, có thể kéo dài tới 6 feet chiều dài. 2. Con nai sừng tấm có dây nịt treo qua quai hàm và có khuôn mặt dài. Một vạt thịt hình chuông lắc lư bên dưới cổ mỗi con nai sừng tấm. 1. Elks có phần đuôi màu da bò đặc biệt và dao động về màu sắc từ nâu nâu khi trời lạnh đến rám nắng vào mùa hè. 2. Phía sau và hai bên nhạt hơn mặt, cổ, bụng và chân.
Tên khoa học

Alces americanus Cervus canadensis
Môi trường sống

Những con nai sừng tấm bị hạn chế đến những khu vực băng giá do kích thước khổng lồ và lớp lông bảo vệ của chúng. Moose phát triển mạnh ở các vùng rừng núi có đường thủy. Chúng có thể được tìm thấy trong rừng mưa hạt trần ven biển Thái Bình Dương, thảo nguyên, công viên cây dương, đồng bằng cây xô thơm và rừng rụng lá phía đông.
Bản chất sống

Moose thích di chuyển đơn độc và thường ở một mình. Yêu tinh di chuyển theo bầy đàn và gặm cỏ cùng nhau.
Con trỏ vật lý

Con nai sừng tấm có móng guốc nhọn, chúng để lại dấu vết sâu hơn, con nai sừng tấm có sừng to hơn và rộng hơn. Yêu tinh có móng guốc cùn, để lại dấu vết nhẹ hơn và nông hơn, móng ngắn hơn và kết hợp lại.

Moose là gì?

Nai sừng tấm là loài hươu lớn nhất và đã phát triển trong nhiều môi trường. Liễu bên sông suối là loại cây ưa thích của chúng. Tuy nhiên, nhiều con nai sừng tấm sống trong cùng môi trường sống với nai sừng tấm, bao gồm thông đường tùng, sồi cọ, dương, bách xù, linh sam và thậm chí cả đồng cỏ. Hầu như có thể tìm thấy con nai sừng tấm ở bất cứ đâu trên địa hình cao của Colorado.

Con nai sừng tấm có bộ lông màu nâu sẫm đến nâu sẫm, đủ dày để che phủ chúng trong suốt những tháng mùa đông lạnh giá. Chỉ những con đực có được gạc, thường được gọi là "bò đực". Những con cái ít chạy trót lọt hơn, trong khi những con bò đực có một chiếc lườn dài và phủ đầy lông kéo dài từ cổ hoặc cằm của chúng. Chúng cũng có lỗ mũi dài và một chiếc mũi to, hình củ.

Con nai sừng tấm nói chung là những sinh vật hiền lành và đôi khi trở nên hung dữ. Nếu bị tấn công, chúng sẽ tự vệ và con đực có thể trở nên kích động hơn trong mùa sinh sản. Hoạt động “hung hăng” điển hình nhất là giả vờ sạc, điều này cho phép chúng giữ an toàn mà không cần phải chiến đấu.

Con nai sừng tấm có thể đạt tốc độ lên tới 35-40 dặm / giờ và có thể phi nước đại 32 km trong vòng chưa đầy một giờ. Moose, xét về trọng lượng và kích thước của chúng, là những vận động viên bơi lội mạnh mẽ. Chúng có thể bơi hơn vài km và thậm chí có thể ngâm mình trong nước tới 30 giây. Số lượng nai sừng tấm trên toàn thế giới được cho là khoảng 2 triệu con, trong đó Canada có con số cao nhất.

Elk là gì?

Nai sừng tấm (Cervus Canadensis), thường được gọi là 'Wapiti', là một trong những phân loài hươu lớn nhất trong nhóm Cervidae và là một trong những loài động vật có vú trên cạn lớn nhất ở Bắc Mỹ, Đông Nam Á và Đông Á.

Đôi khi nó bị nhầm với Alces alces lớn hơn, được biết đến ở Mỹ với cái tên moose nhưng được biết đến trong tiếng Anh Mỹ là nai sừng tấm. Cervus Canadensis được gọi là “Wapiti” ở các nước Châu Âu. Wapiti, có nghĩa là 'vết rạn da trắng' trong tiếng Cherokee và Cree, là nguồn gốc của tên.

Nai sừng tấm có thể mắc nhiều loại bệnh truyền nhiễm, cũng có thể lây sang gia súc. Các nỗ lực tiêm chủng để loại trừ các bệnh truyền nhiễm từ đàn nai sừng tấm đã mang lại nhiều kết quả khác nhau. Elk được tôn kính trong một số nền văn hóa vì có tầm quan trọng thần bí.

Gạc và nhung của chúng được sử dụng trong các liệu pháp truyền thống ở các khu vực Châu Á. Nai sừng tấm là một động vật trò chơi có thể bị săn đuổi. So với thịt bò hoặc thịt gà, thịt của nó nạc hơn và giàu protein hơn.

Nai sừng tấm là những sinh vật to lớn. Con đực khi trưởng thành nặng khoảng 700 pound và có chiều dài 5 feet và cao 8 feet. Con cái thấp hơn và trung bình chỉ 500 pound. Elks có một chiếc áo khoác màu nâu xù xì và trở nên dày hơn khi mùa giải tiến triển. Vào thời kỳ này, con đực cũng phát triển một lớp lông dày quanh cổ. Yêu tinh có lỗ mũi to, tròn và cụp xuống.

Sự khác biệt chính giữa Moose và Elk

Sự kết luận

Cả nai sừng tấm và nai sừng tấm đều là những sinh vật ngoan ngoãn được tìm thấy trong môi trường hoang dã. Chúng thuộc họ hươu, nai với tư thế thân hình to lớn và được coi là loài động vật ăn cỏ lớn nhất trên cạn. Yêu tinh là loài ít gặp hơn nai sừng tấm. Khi đối đầu với con người, nai sừng tấm và nai sừng tấm cư xử khác nhau. Yêu tinh thường bỏ chạy khi nhìn thấy con người, nhưng nai sừng tấm ít có xu hướng chạy trốn và tự vệ tương tự như bò đực.

Cả hai sinh vật đều sống tốt dưới nước nhưng nai sừng tấm có thể bơi tốt hơn và nhanh hơn nai sừng tấm. To lớn hơn và cao hơn cũng là bản chất đơn độc của chúng đôi khi có thể khiến con nai sừng tấm gặp rắc rối khi bị săn đuổi bởi những bầy thú săn mồi.

Người giới thiệu

Sự khác biệt giữa Moose và Elk (Với Bảng)