Logo vi.removalsclassifieds.com

Sự khác biệt giữa Elk và Caribou (Với Bảng)

Mục lục:

Anonim

Động vật là một phần của hệ sinh thái. Động vật làm cho đời sống hoang dã trở nên phong phú và thỏa mãn. Động vật có nhiều loại, tùy thuộc vào những gì chúng ăn hoặc tiêu thụ để sống một cuộc sống. Dựa vào đó, động vật gồm 4 loại: Động vật ăn thịt, động vật ăn cỏ, ăn tạp và ăn xác thối. Nai sừng tấm và tuần lộc cũng là một phần của động vật hoang dã.

Elk vs Caribou

Sự khác biệt chính giữa nai sừng tấm và tuần lộc là chỉ có gạc nai sừng tấm đực mới sở hữu gạc của tuần lộc, trong khi tất cả gạc của nai sừng tấm đực và cái đều có gạc. Elks cồng kềnh và nặng nề, trong khi caribous không quá cồng kềnh và nặng.

Elks còn được gọi là Wapiti và tên khoa học của chúng là Cervus Canadensis. Nó được tìm thấy ở Bắc Mỹ và Đông và Trung Á. Nai sừng tấm là một trong những loài lớn nhất trong họ hươu nai thuộc họ Cervidae. Từ wapiti cho Elk có nghĩa là mụn trắng và nó có nguồn gốc từ từ Shawnee và Cree. Thuật ngữ wapiti cho nai sừng tấm được sử dụng rất phổ biến ở phía đông của châu Âu.

Mặt khác, Caribou là một con tuần lộc và thuật ngữ caribou cho tuần lộc được sử dụng ở lục địa Bắc Mỹ. Nó được tìm thấy ở vùng lãnh nguyên, các vùng bản địa Bắc cực và cận Bắc cực, băng giá và miền núi ở Bắc Âu, Bắc Mỹ và Siberia. Nó cũng là một loại hươu có phân bố theo mạch cực. Nó thuộc chi Rangifer và hiện là động vật đại diện duy nhất của nó trong hệ sinh thái.

Bảng so sánh giữa Elk và Caribou

Các thông số so sánh Con nai sừng tấm Tuần lộc
Gạc Chỉ xuất hiện ở nai sừng tấm đực. Hiện diện ở cả Caribou nam và nữ.
Tuổi thọ 8 đến 12 năm. 12 đến 15 năm.
Trọng lượng Trọng lượng tối đa có thể là 850 lbs và nặng hơn. Trọng lượng tối đa chỉ có thể là 400lbs.
Âm thanh được tạo ra Chúng tạo ra âm thanh huýt sáo. Chúng tạo ra những âm thanh rên rỉ.
Các tên thông thường khác Chúng còn được gọi là Wapiti ở Bắc Mỹ. Chúng còn được gọi là Tuần lộc ở châu Âu.

Elk là gì?

Một con nai sừng tấm thuộc chi Cervus, chúng là những loài đầu tiên xuất hiện trong các hồ sơ hóa thạch trong kỷ Oligocen ở Âu Á, cách đây 25 triệu năm. Chúng không có dấu vết trong hồ sơ hóa thạch Bắc Mỹ. Megaloceros là một con nai sừng tấm Ailen và không thuộc giống Cervus. Nó là thành viên lớn nhất của họ Cervidae được biết đến từ hồ sơ hóa thạch.

Những con nai sừng tấm dễ mắc các bệnh truyền nhiễm, một số bệnh có thể lây truyền cho các sinh vật. Tiêm phòng là quá trình duy nhất mà qua đó bệnh tật ở yêu tinh có thể được giảm bớt hoặc loại bỏ. Một số nền văn hóa đánh giá cao nai sừng tấm mang ý nghĩa tâm linh. Nhung của nai sừng tấm được sử dụng ở các vùng của châu Á để sử dụng trong y học theo truyền thống. Những con nai sừng tấm bị săn bắt ở Vương quốc Anh như một loài trò chơi. Thịt và thịt của chúng mỏng hơn và có hàm lượng protein cao hơn thịt gà hoặc thịt bò. Nai sừng tấm là một trong những loài hươu hòa đồng nhất.

Vào mùa hè, quy mô một nhóm nai sừng tấm có thể lên tới 400 nai sừng tấm. Nai cái có chu kỳ động dục ngắn kéo dài từ 1-2 ngày. Giao phối ở nai sừng tấm thường đòi hỏi rất nhiều nỗ lực. Vào cuối mùa thu năm thứ hai, nai sừng tấm cái có thể sinh một hoặc hai con rất cứng.

Nai sừng tấm di cư vào những khu vực có độ cao cao hơn vào mùa xuân, sau đó là những đợt tuyết rút, và di cư theo hướng ngược lại trong mùa thu. Nai sừng tấm là loài có dạ dày đơn, do đó chúng có dạ dày 4 ngăn. Tinh linh có thể ăn hoặc tiêu thụ trung bình 9,1 kg thực vật hoặc cỏ mỗi ngày.

Caribou là gì?

Thuật ngữ Caribou được đặt ra bởi Carl Linnaeus trong chi Rangifer. Tên phân loài tuần lộc trong rừng là Rangifer tarandus caribou. Caribou đã tiến hóa các sửa đổi để có tốc độ trao đổi chất tối ưu trong những tháng ấm áp cũng như lạnh giá. Cấu tạo cơ thể của tuần lộc rất khác nhau theo mùa. Trong hầu hết các họ hươu, nai đực chỉ mọc gạc; Tuần lộc là loài duy nhất thuộc họ hươu nai, trong đó cả con đực và con cái đều nuôi chúng. Tuần lộc đực sử dụng gạc của mình để chiến đấu với những con tuần lộc đực khác trong mùa giao phối.

Caribou có bàn chân lớn bao gồm bốn ngón chân. Ngoài ra, chúng có hai ngón chân nhỏ, được gọi là "móng vuốt sương", chúng có hai ngón chân to hình nửa vầng trăng giúp nâng đỡ phần lớn trọng lượng của chúng và hoạt động như thuổng khi cần thiết để đào kiếm thức ăn dưới tuyết. Những chiếc móng guốc hình lõm khổng lồ này hỗ trợ vững chắc trên nền đất ẩm ướt và nhão.

Móng ngựa Caribou điều chỉnh theo mùa: vào mùa hè, cánh đồng mềm và ẩm ướt, bàn chân trở nên mềm hơn và hỗ trợ thêm. Vào mùa đông, các miếng đệm tiếp xúc và vặn chặt, giúp mở ra vành móng guốc, giúp cắt băng và tuyết cứng để chúng không bị rơi. Thời gian giao phối của Caribou là vào cuối tháng 9 đến đầu tháng 11 và thời gian mang thai kéo dài trong 228–234 ngày.

Con đực chiến thắng hoặc con đực ưu thế có thể có tới 15–20 con cái để giao phối. Cá voi đực sống ít hơn bốn năm so với caribous cái. Chúng có tuổi thọ khoảng 17 năm. Những con đực ưu thế có kích thước cơ thể và gạc lớn hơn, sẽ đẻ nhiều hơn một con cái trong mùa giao phối.

Sự khác biệt chính giữa Elk và Caribou

Sự kết luận

Elk và Caribou đều thuộc họ hươu với các chi khác nhau. Elk rất cồng kềnh so với Caribou, điều này giúp chúng dễ dàng phân biệt. Tuần lộc rất phổ biến trên khắp thế giới nhưng đặc biệt được tìm thấy ở Bắc Mỹ và Châu Âu.

Cả hai loài động vật này thường bị nhầm lẫn và mọi người coi chúng giống nhau. Cả hai loài động vật đều có sự khác biệt rõ ràng. Elk và caribou là duy nhất theo cách của họ.

Sự khác biệt giữa Elk và Caribou (Với Bảng)